Ngôi chùa Trấn Quốc được coi là chùa có lịch sử lâu đời nhất của Thăng Long - Hà Nội và cũng là một trong những ngôi chùa cổ nhất của Việt Nam. Chùa Trấn Quốc được xây từ thời vua Lý Nam Đế (544 – 548) ở bãi bên sông Hồng thuộc phường Yên Hoa (nay là Yên Phụ) với tên là chùa Khai Quốc (mở nước). Nhà sư Ngô Chân Lưu Khuông Việt (933 – 1011), vị Quốc sư của triều vua Lê Đại Hành đã có một quãng thời gian tu hành ở đây. Đến triều Lê Thái Tông thế kỷ 15, chùa được đổi tên là chùa An Quốc. Năm 1615, bãi sông Hồng bị lở nên dân đã dời chùa về đảo Kim Ngư (đảo Cá Vàng) chính xưa là nền cũ của cung Thúy Hoa nhà Lý và điện Hàm Nguyên thời Trần. Cuối thể kỷ 17, đời vua Lê Hy Tông mới có tên là chùa Trấn Quốc.
Đến cuối thế kỷ 18, chùa bị đổ nát, dân làng đã sửa chữa, đắp tượng, đúc chuông. Công việc này kéo dài tới 2 năm. Năm 1842, vua Nguyễn là Thiệu Trị ra Bắc Hà, tới thăm chùa và đổi tên chùa thành Trấn Bắc nhưng tên này không được nhân dân chấp nhận mà vẫn giữ nguyên cách gọi tên Trấn Quốc.
Chùa Trấn Quốc có kiến trúc khá đặc biệt so với những ngôi chùa khác. Ngay con đường dẫn vào cổng chùa là khu Vườn tháp. Trong khu vườn này có nhiều ngôi tháp cổ từ thời Vĩnh Hựu và Cảnh Hưng thế kỷ 18. Cổng chùa có ba chữ “Phương tiện môn”, tiếp đến nhà Bái đường ở phía trước, sau đó đến Tam bảo, còn hành cung thập điện và gác chuông lại ở phía sau.
Kiến trúc chùa Trần Quốc thể hiện tính thẩm mỹ của kiến trúc phương Đông, gắn bó cảnh quan trời - nước xung quanh. Uy nghiêm ở bên trong nhưng giản dị, khiêm nhường nếu nhìn từ bên ngoài, thể hiện sự cân bằng tuyệt đối giữa công trình kiến trúc với cảnh quan hồ nước, cây xanh. Trong chùa có nhiều tượng đẹp, đặc biệt là có tượng Phật Thích Ca nhập Niết bàn bằng gỗ thếp vàng lộng lẫy.
Chùa Trấn Quốc là một ngôi chùa nổi tiếng có quy mô khá rộng. Vẻ đẹp của ngôi chùa là sự kết hợp hài hoà giữa sự uy nghiêm, cổ kính của công trình kiến trúc với vẻ đẹp thanh nhã, yên ắng của phong cảnh ven Hồ Tây.
Chùa Trấn Quốc với qui mô kiến trúc khá rộng, phong cảnh đẹp, một ngôi chùa nổi tiếng, kết hợp được vẻ đẹp cổ kính của công trình kiến trúc với vẻ đẹp thanh nhã của một thắng cảnh ven Hồ Tây.
Cũng giống như hầu hết những ngôi chùa khác trên đất nước Việt Nam, chùa Trấn Quốc có nhiều nếp nhà. Chùa có ba nếp nhà chính là tiền đường, nhà thiêu hương và thượng điện nối thành hình chữ Công . Hai bên nhà thiêu hương và thượng điện là hai dãy hành lang. Sau thượng điện là gác chuông. Bên phải là nhà tổ và bên trái là nhà bia. Năm 1998, Hòa thượng Kim Cương Tử - Viện chủ Tổ đình chùa Trấn Quốc được phép, đã cho xây bảo tháp lục độ đài sen trong khuôn viên chùa gồm 11 tầng, cao 15 mét, diện tích mặt sàn 10,5 m vuông. Mỗi tầng tháp gồm 6 ô cửa vòm, có tượng Phật A Di Đà bằng đá quí. Tổng số tượng của tháp là 66 pho và trên đỉnh có 9 tầng đài sen cũng bằng đá quí (cửu phẩm liên hoa).
Chùa Trấn Quốc đã sống một cuộc đời riêng, hòa chung trong lịch sử của đất Thăng Long ngàn năm văn hiến mà mỗi viên ngói trên mái chùa rêu phong đều mang trong mình một câu chuyện, gợi lên hoài niệm về những kí ức của Hà Nội thân yêu.