Tuy nhiên, các nhà đầu tư muốn biết họ hưởng lợi gì từ Luật Đầu tư 2014. Chúng tôi ghi nhận một số quy định dưới đây mà nhà đầu tư được hưởng lợi từ Luật Đầu tư 2014.
Không tính thời gian Nhà nước chậm bàn giao đất vào tiến độ dự án
Đối với các dự án đầu tư được Nhà nước cho thuê đất, giao đất trên thực tế, tính từ khi nhà đầu tư được cấp Giấy chứng nhận đầu tư, thời gian Nhà nước bàn giao đất thường kéo dài rất lâu vì nhiều lý do như việc phê duyệt, chấp thuận chậm so với quy định pháp luật, bồi thường giải phóng mặt bằng kéo dài.
Vì vậy, thời gian nhà đầu tư bắt đầu được triển khai dự án trên thực tế (cũng là thời gian nhà đầu tư đượcc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) ngắn hơn nhiều so với thời hạn dự án được quy định trong giấy chứng nhận đầu tư. Điều đó rõ ràng gây thiệt hại đối với các nhà đầu tư.
Do đó, nhờ quy định thời gian Nhà nước chậm bàn giao đất không tính vào thời hạn hoạt động của dự án đầu tư trong Điều 43, Luật Đầu tư 2014, các nhà đầu tư có thể đề nghị cơ quan Nhà nước tính toán, xem xét lại thời gian hoạt động dự án, thời gian cho thuê đất, giao đất để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Xác định rõ thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đầu tư
Luật Đầu tư 2014 đã xác định rõ cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đầu tư đối với trường hợp dự án thực hiện cả trong và ngoài khu công nghiệp, dự án thực hiện trên địa bàn nhiều tỉnh.
Theo Điều 38, Luật đầu tư 2014, Sở Kế hoạch và Đầu tư nơi nhà đầu tư dự kiến đặt hoặc đã đặt trụ sở chính/văn phòng điều hành để triển khai dự án có thẩm quyền tiếp nhận, cấp, thủ hồi, điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư đối với dự án đầu tư thực hiện trên địa bản nhiều tỉnh hoặc thực hiện cả trong và ngoài khu chế xuất, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao. Quy định này đã tháo gỡ được những vướng mắc của Luật Đầu tư 2005 về thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đầu tư trong thực tế triển khai các dự án đầu tư có sử dụng đất thuộc các trường hợp như trên.
Luật Đầu tư 2014 đã có nhiều quy định có lợi cho doanh nghiệp bất động sản (Ảnh minh họa, nguồn: Báo Xây dựng Online) |
Quy định cụ thể những ngành, nghề kinh doanh được phép đầu tư
Hiến pháp 1992 đã quy định quyền tự do kinh doanh, đến Hiến pháp 2013, quyền này tiếp tục được khẳng định và làm rõ tại Điều 33: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Đầu tư 2005 đã có các quy định về quyền tự do đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp, nhà đầu tư đối với các lĩnh vực và ngành, nghề mà pháp luật không cấm.
Tuy nhiên, Luật hiện hành chưa quy định rõ khi không đưa ra các lĩnh vực, ngành, nghề cụ thể nào và bị cấm tại văn bản nào. Cả các nhà đầu tư và cơ quan quản lý Nhà nước trên thực tế đều lúng túng khi áp dụng các quy định này.
Hai việc Luật Đầu tư 2014 đã làm được: thứ nhất, thu hẹp các ngành, nghề bị cấm đầu tư kinh doanh; thứ hai, quy định rõ, cụ thể và tập trung các ngành, nghề bị cấm đầu tư kinh doanh. Điều 5, Luật Đầu tư 2014 quy định rõ: “Nhà đầu tư được quyền thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong các ngành, nghề mà Luật này không cấm”. Điều 6, Luật Đầu tư 2014 cũng đã nêu rõ 6 hoạt động đầu tư kinh doanh bị cấm. Điều 4 và Điều 8, Luật Đầu tư 2014 cũng khẳng định rằng, nếu có những quy định khác nhau về ngành, nghề cấm đầu tư, kinh doanh giữa Luật Đầu tư 2014 với các luật khác thì áp dụng Luật Đầu tư 2014, việc bổ sung, sửa đổi ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh phải do Quốc hội đồng ý.
Do đó, nhà đầu tư chỉ cần xem quy định của Điều 6, Luật Đầu tư 2014 là biết rõ mình được phép đầu tư, kinh doanh vào các ngành, nghề nào không bị cấm mà không cần phải tra các văn bản pháp luật khác.
Kiểm soát chặt chẽ các ngành, nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện
Luật Đầu tư 2005 chỉ quy định 9 lĩnh vực đầu tư có điều kiện nhưng lại rất chung chung theo kiểu bỏ ngỏ “Một số lĩnh vực khác theo quy định của pháp luật”. Luật này không đưa ra danh mục ngành, nghề kinh doanh có điều kiện mà chỉ quy định chung là áp dụng theo quy định của pháp luật chuyên ngành. Thực tế hiện tại các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện được quy định ở các văn bản pháp luật và cấp độ khác nhau từ Luật, Pháp lệnh, Nghị định tới quyết định của Thủ tướng Chính phủ và có xu hướng ngày càng gia tăng, rất khó kiểm soát.
Từ việc rà soát lại tất cả các ngành, nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện quy định tại các văn bản pháp luật hiện hành, Luật Đầu tư 2014 đã thống nhất được danh mục toàn bộ các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện gồm 267 ngành, nghề cụ thể tại Điều 7 và Phụ Lục 4 Luật Đầu tư 2014. Việc bổ sung, sửa đổi danh mục này phải được Quốc hội đồng ý.
Áp dụng chung danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện cho cả nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Các quy định điều kiện đầu tư kinh doanh đối với các ngành, nghề thuộc danh mục này phải bảo đảm công khai, khách quan, minh bạch, tiết kiệm chi phí, thời gian tuân thủ của nhà đầu tư và chỉ được quy định tại các Luật, Pháp lệnh, Nghị định và Điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên.
Đối với Luật Đầu tư 2014, nhà đầu tư có thể yên tâm rằng danh mục các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện đã được kiểm soát rất chặt chẽ, khó có khả năng tăng thêm về số lượng.
Ngoài ra, Luật đầu tư 2014 có các thay đổi khác như: bỏ quy trình thẩm tra cấp Giấy chứng nhận đầu tư, nhà đầu tư trong nước không phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư; nhà đầu tư nước ngoài đầu tư theo hình thức mua cổ phần, góp vốn, phần vốn góp không phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Luật sư Nguyễn Thanh Hiền & Trợ lý Phan Thành Tuấn
(Công ty Luật ATIM)