Mới đây, tại một hội thảo về nhà ở xã hội, ông Hà Quang Hưng, Cục phó Cục Quản lý nhà và Thị trường bất động sản (Bộ Xây dựng) đã nêu lên thực trạng phát triển nhà ở xã hội tại việt Nam.
Theo đó, đến hết năm 2018, Việt Nam mới hoàn thành 198 dự án nhà ở xã hội với quy mô xây dựng hơn 81.700 căn, tương đương khoảng 4.085m2, chỉ đạt 33% so với mục tiêu đề ra. Dự kiến trong tương lai sẽ có 226 dự án được triển khai tiếp với 182.200 căn, tương đương khoảng 9.110m2.
Nguồn cung này quá ít ỏi so với nhu cầu liên tục gia tăng mạnh qua các năm. Theo ông Nguyễn Văn Sinh, Thứ trưởng Bộ Xây dựng, với tốc độ đô thị hóa hiện nay, mỗi năm Việt Nam sẽ có thêm 1 triệu dân đô thị, cùng với đó là nhu cầu nhà ở tăng cao, tập trung phần lớn ở phân khúc nhà bình dân. Theo thống kê, đầu năm 2018, số lượng công nhân khu công nghiệp có nhu cầu về chỗ ở vào khoảng 1,2 triệu người, dự kiến đến năm 2020 sẽ lên tới khoảng 3 triệu người.
Một vấn đề quan trọng là phải thay đổi tâm lý của người mua nhà Việt Nam, từ sở hữu nhà ở sang có chỗ ở bằng hình thức thuê nhà |
Tuy nhiên, để giải quyết bài toán về nhu cầu nhà ở giá rẻ, các chuyên gia cho rằng, một vấn đề quan trọng là phải thay đổi tâm lý của người mua nhà Việt Nam, từ sở hữu nhà ở sang có chỗ ở bằng hình thức thuê nhà.
Theo ông Nguyễn Đức Kiên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội, việc đáp ứng mỗi người lao động phải mua được một căn hộ là điều khó khả thi, không chỉ riêng với Việt Nam mà ngay cả các nước thuộc nhóm G7. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 và các văn bản pháp luật ban hành như Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh nhà ở cũng không quy định Nhà nước phải có trách nhiệm tạo điều kiện cho công dân sở hữu nhà ở, mà chỉ khẳng định Nhà nước tạo điều kiện để cho công dân có chỗ ở ổn định. Như vậy, cần phải có một nhận thức mới về vấn đề này. Các chủ đầu tư, chính quyền địa phương phải có trách nhiệm xây dựng một hệ thống nhà ở cho người lao động thuê trong thời gian làm việc tại các khu công nghiệp, các nhà máy trên địa bàn. Trong đó ưu tiên triển khai hệ thống nhà ở thuộc sở hữu nhà nước, cho người dân thuê lại với giá phù hợp với thu nhập. Việc sở hữu nhà ở chỉ đặt ra với những người có thu nhập trung bình khá trở lên.
Ông Kiên cũng nhấn mạnh, vấn đề lớn hơn đặt ra trong chính sách nhà ở xã hội là phải đảm bảo cho người lao động chưa hoặc đã về hưu có thu nhập đủ để trang trải cuộc sống và trả tiền thuê nhà. Điều này sẽ giúp Nhà nước thu hồi đất để xây dựng các khu nhà ở xã hội ít gặp khó khăn trong việc đền bù và tái định cư, không tạo ra mâu thuẫn giữa những cư dân địa phương bị thu hồi đất với những người đến ở trong các khu nhà xã hội được xây dựng trên các mảnh đất đó.
Ưu điểm của phương án này còn thể hiện rõ là Nhà nước vẫn giữ được quỹ đất và tài sản hình thành trên đất là tài sản công. Việc định giá cho thuê, Nhà nước sẽ căn cứ vào thu nhập thực tế của từng giai đoạn của người lao động, có chính sách bù lỗ thông qua việc bảo trì căn hộ, duy trì các diện tích công cộng sử dụng chung như trường học, bệnh viện, khu vui chơi giải trí của trẻ em và người già… Phương án này sẽ tránh được tình trạng lợi nhuận thu được từ chênh lệch địa tô khi chuyển từ đất nông nghiệp sang đất ở tập trung vào một số đối tượng, gây bất bình trong xã hội và làm cho khoảng cách giàu nghèo trong xã hội ngày càng bị phân hóa.
Thúy An