Cụ thể, nhà đầu tư có quyền chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ dự án cho nhà đầu tư khác khi đủ các điều kiện pháp luật quy định. Ông Châu cho biết, điều này đã thể hiện sự xem trọng quyền tự do, quyền tự chủ kinh doanh của nhà đầu tư.
Có thể nhận thấy, quy định chuyển nhượng dự án đầu tư trong Luật Đầu tư (sửa đổi) đã thông thoáng hơn là quy định chuyển nhượng dự án trong Luật Kinh doanh BĐS (sửa đổi). Bởi vì, tại Khoản 1, Điều 51, Luật Kinh doanh BĐS chỉ cho phép chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ dự án BĐS trong trường hợp chủ đầu tư dự án BĐS không có khả năng tiếp tục triển khai dự án.
Quy định đó đã khiến nhiều doanh nghiệp băn khoăn về quyền chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ dự án BĐS khi có nhu cầu của chủ đầu tư dự án BĐS, ngay cả với điều kiện dự án đã có quy hoạch chi tiết 1/500, đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt hoặc quy hoạch tổng mặt bằng được phê duyệt và đã tiến hành giải phóng mặt bằng.
Quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp BĐS được xem trọng (Ảnh minh họa) |
Còn Tổng giám đốc Công ty CP Phát triển Nhà Thủ Đức TS. Lê Chí Hiếu cho biết, quy định về chấm dứt hoạt động của dự án cũng có nét mới rất tích cực bên cạnh chế định về chuyển nhượng dự án. Cụ thể, theo quy định tại Điều 47 về giãn tiến độ đầu tư đối với dự án được chấp thuận chủ trương đầu tư hoặc cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, nhà đầu tư phải đề nghị bằng văn bản khi giãn tiến độ xây dựng, tiến độ thực hiện vốn đầu tư và đưa công trình chính vào hoạt động hay tiến độ triển khai các mục tiêu hoạt động của dự án đầu tư.
Đối với trường hợp tạm ngừng, ngừng hoạt động của dự án đầu tư, theo quy định tại Điều 48, nhà đầu tư phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đăng ký đầu tư.
Quy định nêu trên được cộng đồng doanh nghiệp đánh giá rất cao về tính cụ thể, chi tiết và phù hợp thực tiễn thị trường. Có thể thấy, Luật đã tôn trọng và bảo vệ quyền sở hữu tài sản của nhà đầu tư dự án.
Những quy định này hoàn toàn khác với chế định thu hồi đất vì vi phạm pháp luật về đất đai tại Điều 64, Luật Đất đai 2013, quy định: Đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục hoặc tiến độ sử dụng đất chậm 24 tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư, kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa, phải đưa đất vào sử dụng;
Trường hợp không đưa đất vào sử dụng thì chủ đầu tư được gia hạn sử dụng 24 tháng và phải nộp cho Nhà nước khoản tiền tương ứng với mức tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với thời gian chậm tiến độ thực hiện dự án trong thời gian này, hết thời hạn được gia hạn mà chủ đầu tư vẫn chưa đưa đất vào sử dụng thì Nhà nước thu hồi đất mà không bồi thường về đất và tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp do bất khả kháng.