Sau giai đoạn khủng hoảng 2011- 2013, kinh tế Việt Nam dần đi vào ổn định. Kể từ năm 2014 đến nay, thị trường BĐS phát triển mạnh, thu hút rất nhiều các nhà đầu tư nước ngoài từ Hồng Kông, Trung Quốc, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc… đổ một lượng vốn lớn vào thị trường thông qua các hình thức hợp tác đầu tư mua lại dự án, mua tài sản, mua công ty sở hữu dự án…
Trong giai đoạn này, đa số các "ông lớn" bất động sản đều thực hiện chiến lược mở rộng quỹ đất thông qua các thương vụ M&A trong, họ được xem là "cá mập" trên thị trường.
Trong đó, các nhà đầu tư đến từ Hồng Kông, Trung Quốc Đại Lục, Singapore và Hàn Quốc đang được đánh giá là những "cá mập" năng động nhất trên thị trường mua bán dự án.
Ông Phan Xuân Cần, Chủ tịch Sohovietnam - "ông trùm môi giới" BĐS thừa nhận, thị trường M&A những năm gần đây phát triển rất sôi động. Theo nghiên cứu của Sohovietnam, có những nhà đầu tư Hồng Kông đã mua hàng chục dự án tại Việt Nam.
Ông Cần mật mí, Sohovietnam đã thực hiện vài chục giao dịch thành công, thường là những thương vụ tầm trung khoảng 200-400 tỷ, cũng đã có giao dịch thành công lên tới trên 1.000 tỷ. Nhưng do tính bảo mật nên ông không được phép tiết lộ thông tin.
Theo "ông trùm môi giới", về cơ bản, nhu cầu chuyển nhượng dự án tại Hà Nội và Tp.HCM vẫn là các nhu cầu tìm mua và bán các dự án xây căn hộ, tổ hợp, văn phòng, khách sạn, căn hộ cho thuê, trung tâm thương mại, bệnh viện, trường học,…
Ông Phan Xuân Cần đã tư vấn, môi giới thành công hàng chục thương vụ
mua bán dự án bất động sản
"Khẩu vị của các nhà đầu tư ở mỗi thị trường là có khác nhau. Ví dụ, các tài sản như tòa nhà văn phòng, khách sạn hiện hữu ở Tp.HCM nhiều hơn Hà Nội, quy mô lớn hơn nên nhu cầu tìm mua ở Tp.HCM về thị trường văn phòng, khách sạn cũng lớn hơn ở Hà Nội. Tính minh bạch trong việc mua bán, chuyển nhượng dự án ở Tp.HCM cao hơn Hà Nội. Trong khi, các chủ tài sản ở Hà Nội có xu hướng nắm giữ lâu dài, còn chủ dự án ở Sài Gòn lại sẵn sàng bán dự án cao hơn nhà đầu tư Hà Nội", ông Cần cho hay.
Cũng theo ông Cần, đối với những nhà đầu tư Nhật Bản, họ rất kỹ càng trong việc mua lại dự án và có thể phân chia thành hai nhóm chính như sau:
Nhóm 1: Thường mua 20% đến 30% cổ phần của một công ty bất động sản để trở thành cổ đông chiến lược sau đó sẽ cùng công ty bất động sản Việt Nam hợp tác phát triển dự án, nhà đầu tư Nhật Bản có thể hỗ trợ các nguồn vốn vay với giá rẻ. Nhà đầu tư Nhật Bản cũng thường hợp tác, liên doanh liên kết với nhà đầu tư Việt Nam trong việc phát triển từng dự án để tạo ra các sản phẩm nhà ở mang phong cách Nhật Bản.
Nhóm 2: Thường mua hoặc thuê dài hạn các tài sản như văn phòng cao cấp, khách sạn 4-5 sao, căn hộ cho thuê. Nhà đầu tư Nhật ưa thích các tài sản có dòng tiền đều đặn nhằm giảm thiểu rủi ro.
Hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài đều yêu cầu các dự án có đầy đủ hồ sơ pháp lý, đất đã giải phóng mặt bằng sạch, chỉ có một số ít các nhà đầu tư tham gia dự án ở quy mô lớn, sẵn sàng hợp tác cùng các chủ dự án Việt Nam ở giai đoạn chủ trương đầu tư.
Hiện nay, thị trường BĐS Việt Nam đang được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá có tiềm năng rất lớn. Trong đó, nhà đầu tư Nhật và Trung quốc nhận định thị trường Việt nam còn rất tiềm năng để phát triển các loại hình bất động sản.