Theo đó, thị trường bất động sản (BĐS) năm 2015 sẽ tăng trưởng tốt, giúp cho các doanh nghiệp “làm đẹp” về tài chính và vẫn giữ ở mức giá nhà đất chấp nhận được để đáp ứng được nhu cầu thực tế từ xã hội. Tuy nhiên, một "cơn sốt" trên thị trường BĐS như năm 2007 sẽ khó có thể lặp lại.
VDSC cho biết, thị trường BĐS năm 2015 so với thời điểm năm 2007 có nhiều nét tương đồng. Đó là việc cho vay BĐS được nới lỏng. Trong cả hai năm 2015 và 2007, lãi suất cho vay và huy động đều ở mức thấp (dưới 10%/năm), nhất là lãi suất cho vay đầu tư BĐS. Vào năm 2007, BĐS không nằm trong danh mục hạn chế cho vay cũng chưa bị tăng tỷ lệ rủi ro cho vay. Tới năm 2015 thì các rào cản cho vay nêu trên cũng vừa được dỡ bỏ.
Cụ thể, điều kiện cho vay từ gói tín dụng 30.000 tỷ đồng mới đây đã được nới lỏng và lãi suất vay cũng giảm còn 5%/năm, đặc biệt thời gian cho vay tối đa được kéo dài lên đến 15 năm. Gần đây, theo một số chuyên gia kinh tế, Ngân hàng Nhà nước đang xem xét khả năng đưa ra gói 50.000 tỷ đồng dành cho phân khúc nhà ở thương mại với thời hạn 10 năm, lãi suất 7%/năm.
Theo VDSC, thị trường BĐS sẽ khó lặp lại "cơn sốt" năm 2007. Ảnh minh họa |
Thêm nữa, với việc gia nhập WTO (tháng 11/2006), Việt Nam đã từng kỳ vọng dòng vốn FDI sẽ đổ vào nhiều ngành nghề, nhất là mảng BĐS trong năm 2007. Không ngoài mong đợi, vốn FDI thực hiện năm 2007 đã tăng 13,9% so với năm 2006.
Đến năm 2015, lĩnh vực BĐS trong 2 tháng đầu năm vẫn tiếp tục đứng thứ 2 trong danh sách các ngành nghề thu hút vốn FDI với tổng số vốn đầu tư lên đến 111,43 triệu USD.
Bên cạnh đó, cú lao dốc của thị trường chứng khoán trong thời điểm 2006-2007 đã làm nhiều nhà đầu tư chứng khoán chuyển sang lĩnh vực BĐS. Điều đó đã lặp lại vào nửa cuối năm 2014 bởi tác động của các yếu tố khách quan tới từ thế giới và những yếu tố nội tại.
Tuy nhiên, VDSC tin tưởng rằng, "cơn sốt" trên thị trường BĐS như năm 2007 sẽ khó mà lặp lại bởi quy mô thị trường hiện tại đã lớn hơn với nguồn cung phong phú trên nhiều phân khúc thay vì chỉ tập trung ở mình phân khúc cao cấp như trong giai đoạn trước.
Hơn nữa, việc quản lý Nhà nước đối với thị trường cũng đã sát sao hơn nên hạn chế được việc đẩy giá từ những đầu cơ. Nhà đầu thư nước ngoài tham gia thị trường đã thay đổi hình thức từ hình thức liên kết, liên doanh sang hình thức sáp nhập, thâu tóm. Điều đó tạo được sự tự do cho thị trường bằng hình thức cạnh tranh chứ không còn chịu sự điều tiết thông qua mệnh lệnh hành chính của Nhà nước như trước kia.
Ngoài ra, một yếu tố khác là chính sách tín dụng, tiền tệ hiện nay không quá dễ dàng như năm 2007. Nhà nước đã quan tâm nhiều hơn tới nhu cầu thực trong xã hội để tăng tính “căn cơ” cho sự phát triển của thị trường.